top of page

NHỮNG ĐIỀU GIẢ TƯỞNG TRÊN XỨ SỞ THIÊN ĐƯỜNG



Nếu đã đọc lướt qua những trang sách của cuốn Khoe bàn chân nhỏ, bạn đã thấy người Trung Quốc thật sự xấu xí và đáng thương. Phần đông trong số họ mang những tính cách không nên có ở con người. Ví dụ, họ sống rất bừa bẩn, nói giọng oang oang để cố trưng cái lý lớn mà không thể phản biện được, thích kèn cựa đấu đá lẫn nhau nên không thể hợp tác làm ăn được dù ở bất cứ nơi đâu, ở cơ quan thì ham đấu đá nội bộ. Đặc biệt, họ vô cùng ngoan cố, không những không chịu nhận sai mà còn dùng ngàn lý do để che đậy, bao biện cho việc làm sai trái đó.


Không chỉ có thế, “Người Trung Quốc thích nói khoác, thích nói không bằng không cớ, thích nói gian nói dối, lại càng thích nói lời cay nghiệt”. Do vậy, “người Trung Quốc vừa ra đời đã mang một gánh nặng, ngày nào cũng phải dò xét ý tứ của người khác.” Và bởi vì “không ngừng nói khoác, nói không, nói giả, nói dối, nói cay độc, nên tâm hồn người Trung Quốc đã hoàn toàn bị đóng chặt, không thể rộng mở được nữa.” Những tính cách này làm họ vừa tự ti vừa tự kiêu. Khi tự ti, họ “thấy mình chỉ bằng bãi phân chó, nên càng đến gần những kẻ quyền quý, nụ cười trên mặt càng tươi. Còn khi tự kiêu lại thấy tất cả những người khác đều là phân chó, chẳng đáng liếc mắt. Và như vậy, họ biến thành một loài động vật kỳ dị nhân cách phân liệt.” Đây là hậu quả của 4000 năm đất nước này bị đầu độc bởi văn hóa Nho gia suốt từ thời Đông Hán cộng thêm họa cộng sản đã bóp chết năng lực tưởng tượng, óc tư duy của giới tri thức, làm người Trung Quốc tự biến mình thành súc vật và tại sao đất nước chứa 1 tỷ cái miệng há to lúc nào cũng muốn nuốt chửng cả núi Himalaya (Trích Khoe bàn chân nhỏ, Bách Dương) (1) ! Trách hay hận ai, lịch sử đời sau sẽ phân tích những điều này !!!


1. NGUYÊN NHÂN SÂU XA


Là người Việt Nam, bạn phải tự hiểu rằng người Trung Quốc chỉ như những “con vịt giời sợ sấm”, thích quang quác kiếm ăn khi yên ổn nhưng hễ có việc hệ trọng thì im thin thít. Do vậy, đối với quốc gia này, chúng ta không có lý do gì phải kiêng nể hay dè chừng họ, bởi Việt Nam đã tồn tại song hành cùng Trung Quốc qua vài ngàn năm lịch sử mà vẫn giữ trọn danh dự non sông. Vậy thì cái quyết định của hiệp ước Thành Đô ấy là một dấu hỏi lớn của lịch sử. Tại sao ĐCSVN lại tàn nhẫn đặt bút ký vào đó, những thế lực nào đã trực tiếp tham gia, hiệp ước Thành Đô mang lại lợi ích cho ai và có những biến cố nào đã thực sự xảy ra trong giai đoạn kí kết hiệp ước này ?


Thứ nhất, sự hình thành của hiệp ước Thành Đô không phải là ngẫu nhiên mà được dự trù sẵn một cách đầy toan tính từ năm 1926, khi ông Hồ Chí Minh “hứa danh dự” với 2 Đại tướng Tàu Trần Canh và Vị Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông. Theo đó, trong khoảng năm 1925 đến 1927, Hồ Chí Minh đã tự chọn và cử những hạt giống của đảng cộng sản sắp được thành lập gồm có Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Hoàng Văn Hoan, Lê Hồng Sơn, Trương Văn Lĩnh, Hoàng Đình Giong, Năm Long, Lê Quảng Ba, Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Thái để gửi sang Trung Quốc huấn luyện về chính trị (2). Bốn năm sau, năm 1930, thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương, ông Hồ khẳng định một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai:"Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một Nền văn hóa. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật, thắng  tất cả bọn tư bản vùng Đông Nam Á, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa...." (3)


Ngày 14-09-1958, ông Hồ chỉ thị Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký "công hàm" giao đứt quần đảo Hoàng Sa cho Mao Trạch Đông (4). Lê Duẩn (tên thật Lê Văn Nhuận: 1907-1986) chết ngày 10-07-1986, ông Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) lên nắm chức Tổng Bí Thư, tức khắc nối lại bang giao với Trung Quốc bằng 1 câu nói để đời trong lịch sử: "Tôi cũng biết rằng, dựa vào Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng mất nước còn hơn mất Đảng ".

Ngày 10-08-1987, ông Nguyễn Văn Linh (khi đó đang mắc bệnh ung thư) bay qua Trùng Khánh gặp Hồ Diệu Bang (1915-1989), Đặng Tiểu Bình (1904-1992= thọ 92 tuổi) bàn luận về các kế hoạch cắt đất, cắt biên giới và phát họa rõ ràng hơn 1 chương trình "sát nhập Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc" qua chiến thuật "Hoà Bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo, không ai có quyền biết đến" với thời gian 60 năm, phân ra làm 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 20 năm theo kế hoạch như sau:

  • GIAI ĐOẠN I  : Ngày 15-07-2020 : QUỐC GIA TỰ TRỊ.

  • GIAI ĐOẠN II : Ngày 05-07-2040 : QUỐC GIA  THUỘC TRỊ.

  • GIAI ĐOẠN III: Ngày 05-07-2060 : Tỉnh lỵ Âu Lạc.

Tỉnh trưởng vẫn là người Việt, đặt dưới quyền lãnh đạo của Tổng Đốc Quảng Châu. Và đặc biệt, tiếng VIệt sẽ là ngôn ngữ phụ, tiếng Tàu mới là ngôn ngữ chính thức từ thời gian này trở đi (5). Điều này đi ngược với lịch sử nước Âu Lạc khi Thục Phán thống nhất lãnh thổ của người Âu Việt và Lạc Việt để lập nên nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.

2. QUY CHẾ KHU TỰ TRỊ RA SAO ?

Theo cuốn băng nhựa của Tổng Cục 2 Việt Nam, người Tàu đã trịnh thượng ban mệnh lệnh, giáo huấn, dạy dỗ, răn đe cấp lãnh đạo Việt Nam phải làm những gì suốt 60 năm dài "tịch thu" nước Việt Nam từng bước một: "Âm thầm, Lặng lẽ, Từ từ như tằm ăn dâu. Khéo như dệt lụa Hàng Châu. Êm như thảm nhung Thẩm Quyến..." theo thể thức "diễn tiến hoà bình". Làm cách nào  để cho người Việt Nam và dư luận quốc tế nhìn nhận rằng, người Tàu không "cướp nước Việt" mà chính người Việt Nam tự mình  "dâng nước" và tự ý đồng hóa vào dân tộc Trung Hoa. Điều này phù hợp với những chuyển biến trong giao thương giữa hai nước được ghi nhạn bởi tác giả Joseph Y.S. Cheng trong cuốn “Sino-Vietnamese Relations in the early twenty-first century: Economics in Command ?” (6) 

Tại Thành Đô, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh xin xỏ Đặng Tiểu Bình: Nhờ Trung Quốc mà Đảng Cộng Sản Việt Nam mới nắm được chính quyền, mới thắng đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ, diệt được bọn tư bản phản động. Công ơn Trung Quốc to lắm, bốn biển gộp lại cũng không bằng. Do thế, nhà nước Việt Nam đề nghị Trung Quốc xóa bỏ các hiểu lầm, các bất đồng đã qua. Phía Việt Nam sẽ làm hết sức mình để vun bồi tình hữu nghị lâu đời vốn sẵn có giữa hai đảng do Mao Chủ Tịch và Hồ Chí Minh dày công xây dựng trong qua khứ. Việt Nam sẽ tuân thủ đề nghị của Trung Quốc là cho Việt Nam được hưởng "quy chế khu tự trị trực thuộc chính quyền trung ương Bắc Kinh" như Trung Quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương, Quảng Tây... Để kịp chuẩn bị tâm lý nhân dân và giải quyết các bước cần thiết cho việc gia nhập vào đại gia đình dân tộc Trung Quốc, xin cho thời hạn chuyển tiếp sát nhập là 60 năm: 1990-2020. 2020-2040. 2040-2060 (11).


3. ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP –

NẠN NHÂN CỦA TRANH GIÀNH LỢI ÍCH NHÓM

Một chứng nhân lịch sử đóng vai trò tối quan trọng trong Hiệp ước này là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người đã hai lần thoát nạn khỏi những cuộc thanh trừng đẫm máu do chính các đồng chí của ông gây ra ở 2 thời điểm quyết định là Tổng tiến công Mậu Thân 1968 và vụ vu cáo ông Giáp và Tướng Trần Văn Trà hồi năm 1991 được biết tới như vụ 'Năm Châu - Sáu Sứ'. Cuốn hồi ký “Bên thắng cuộc” là một bản án rõ ràng ghi lại những tội ác này.


“Vụ đầu tiên (1968) diễn ra dưới sự điều phối của ông Lê Đức Thọ, Trưởng ban tổ chức trung ương, trong thời gian một loạt những người bị cho là xét lại chống Đảng bị bắt giữ trong đó có cả những người thân cận với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó cũng diễn ra trong giai đoạn mà tác giả Huy Đức nói ông Hồ Chí Minh đi nghỉ ở Trung Quốc, Tướng Giáp đi dưỡng bệnh ở Hungary giữa lúc việc chuẩn bị cuộc tấn công Mậu Thân được Tổng bí thư Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ hoạch định đằng sau lưng vị "cha già dân tộc" và "anh cả quân đội". Cả hai ông Thọ và Duẩn đều được cho là chủ đánh tới cùng trong khi đại diện của bên vừa đánh vừa tìm kiếm giải pháp chính trị là Tướng Giáp và Tướng Nguyễn Văn Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng và ủy viên Thường trực Tổng quân ủy, người đã mất hết các chức vụ trong đầu năm 1968”. (7)


Ở vụ thứ hai năm 1991, “trong "chiến tranh giải phóng miền Nam", cho dù tướng Giáp vẫn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tổng tư lệnh, bí thư Tổng Quân ủy, nhưng theo [Cục trưởng Quân báo, Đại tá] Lê Trọng Nghĩa thì : "Thay vì ông Giáp là người quyết định, ông Lê Đức Thọ có sáng kiến lập ra Tổ năm người giúp Trung ương chỉ đạo tác chiến miền Nam gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê Đức Thọ. Trong tổ này, ông Giáp chỉ còn một phiếu." Tức là trọng lượng của ông Giáp đã bị kiềm chế tối đa rồi (7).


4. VỤ “NĂM CHÂU- SÁU SỨ” NĂM 1991 –

NHỮNG SAI PHẠM NGHIÊM TRỌNG CỦA TỔNG CỤC II

“Tác giả Huy Đức cũng thuật lại chi tiết vụ án có tên ' Năm Châu - Sáu Sứ', tên của hai nhân vật được cho là đã khai rằng Tướng Giáp và Tướng Trà đã cấu kết cùng người khác để "có âm mưu đảo chính" hồi năm 1991. Sự mặc cảm trước uy danh của tướng Giáp chỉ có thể được tích tụ thông qua hai người đã cất nhắc Lê Đức Anh: Lê Duẩn và, đặc biệt là, Lê Đức Thọ.Huy Đức nhận xét về Tướng Lê Đức Anh trong vụ 'Năm Châu - Sáu Sứ' (7) “Trên thực tế, ông Huy Đức dẫn lời các nhân chứng nói, đây là một vụ án do Tổng cục Tình báo Quân đội, hay Tổng cục II, dựng lên với sự tham gia của Tướng Lê Đức Anh và sự bao che của Tướng Đoàn Khuê và các lãnh đạo trong đó có Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm, người phụ trách nhân sự trong Đảng lúc bấy giờ” (7).


Mục đích của vụ Năm Châu – Sáu Sứ là nhằm hạ bệ uy tín của ông Giáp trong đảng khi ông đã 80 tuổi. Lê Đức Anh, người trực tiếp điều hành hoạt động của Tổng cục II đã được Lê Duẩn và đặc biệt là Lê Đức Thọ cất nhắc để tăng cường lợi ích nhóm họ trong nội bộ đảng (7). Suốt 48 năm từ năm 1945 cho đến năm 1993, Cục 2 vẫn chỉ là một cơ quan trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu của Quân đội nhân dân Việt Nam cho đến năm 1995 thì trở thành Tổng cục 2, với tên gọi chính thức là Tổng cục Tình báo Quốc phòng và từ vị trí phụ thuộc, Tổng cục 2 được chuyển thành cơ quan ngang hàng với Bộ Tổng Tham mưu. Vai trò của Tổng cục 2, được ông Nông Đức Mạnh, khi ấy đang là Chủ tịch Quốc hội, hợp pháp hoá bằng Pháp lệnh Tình báo ban hành vào tháng 12 năm 1996. Sau đó, pháp lệnh vừa kể được ông Võ Văn Kiệt chi tiết hoá, bằng Nghị định 96, ban hành vào tháng 9 năm 1997 (8).


Ông Bùi Tín – cựu Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, người theo dõi rất sát các diễn biến liên quan đến Tổng cục 2, tóm tắt về vụ Sáu Sứ như sau: “Vụ Sáu Sứ còn gọi là vụ Năm Châu, xảy ra từ Đại hội 7, năm 1991. Vụ đó do bàn tay của Tổng cục 2, bố trí cho một số Đảng viên lâu năm ở miền Nam là Năm Châu và Sáu Sứ ra Hà Nội, mục đích để giăng bẫy ông Võ Nguyên Giáp, rồi từ đó, kết luận là ông Võ Nguyên Giáp bè phái, tham quyền, có ý đồ tập trung một số tay chân của mình để lật đổ Bộ Chính trị và chính quyền hồi đó. Thế nhưng tất cả những chuyện này là chuyện dựng đứng. Do đó mà ông Giáp yêu cầu phải làm rõ vụ Năm Châu và Sáu Sứ. Lúc ấy, họ cho rằng ông Giáp có ý định giành quyền Tổng bí thư và được ông Trần Văn Trà tiếp sức. Ông Trần Văn Trà định là giành chức Bộ trưởng Quốc phòng. Thế nhưng tất cả những cái đó đều là sự bịa đặt của Lê Đức Anh, của Nguyễn Chí Vịnh, của Đỗ Mười, để làm hại ông Võ Nguyên Giáp. Đấy là tóm tắt vụ Sáu Sứ với Năm Châu. Cả ông Năm Châu, bà Sáu Sứ đều đã chết rồi.” (8)


Vụ T4 cũng có tính chất tương tự, ông Bùi Tín kể tiếp: “Vụ T4 là vụ Nguyễn Chí Vịnh, cầm đầu Tổng cục 2 bịa đặt rằng họ đã đặt được một gián điệp của Việt Nam vào cơ quan CIA và điệp viên đó có bí danh là T4. T4 thông báo danh sách những người đã cộng tác với CIA, đã tiếp xúc với CIA, đã làm tay sai cho CIA. Danh sách đó dài lắm. Nó lên tới hơn 20 người. Trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà rồi những người lúc bấy giờ đang còn tại chức như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, bà Võ Thị Thắng,.Mục đích của họ là gì? Mục đích của họ là bôi nhọ những người đó, rồi Tổng cục 2 cùng với Lê Đức Anh và Đỗ Mười được nước láng giềng lớn giúp đỡ làm một cuộc đảo chính, lật đổ hết và dựng lên một chính quyền mới, một Bộ Chính trị mới, một Ban Chấp hành Trung ương hoàn toàn mới và hoàn toàn là tay sai của Bắc Kinh. Đó là mưu đồ của T4 và cũng đã bị ông Giáp tố cáo, yêu cầu phải giải quyết một cách triệt để.” (8)


Theo rất nhiều tài liệu và hồi ký của cán bộ cộng sản, Sáu Sứ và T4 chỉ là hai trong hàng loạt sai phạm đã xảy ra tại Tổng cục 2 và sự phẫn nộ trong hàng ngũ các công thần, những trụ cột của chế độ đã buộc Đảng CSVN phải tính đến việc xem xét toàn diện các sai phạm này vào năm 2005 (8).

5. HẬU HỌA TỒN DƯ TỚI HIỆN NAY

Qua hai sự việc chính ở Tổng cục II, ta có thể thấy sự tranh giành lợi ích nhóm đã rất rõ ràng trong nội bộ ĐCSVN trong thời gian dài. Một điều rất rõ ràng là, hai vụ việc Năm Châu – Sáu Sứ và vụ T4 đã chỉ đích danh sự tàn độc của Nguyễn Chí Vịnh trong nhiều hoạt động thanh trừng các nhóm lợi ích.


Hành vi độc ác của Nguyễn Chí Vịnh đã bị Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh và 37 tướng tá khác đồng loại lên án trong một lá thư ngày 22.4.2010 rằng “ Nguyễn Chí Vịnh phẩm chất xấu xa, làm nhiều sai trái, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư cho Tổng bí thư không nên đề bạt Trung tướng, đ/c Nông Đức Mạnh trả lời Đại tướng là “ không thăng Trung tướng, còn chưa biết đưa đi đâu để rèn… luyện ”, nhưng rồi vẫn đề bạt Trung tướng và Thứ trưởng quốc phòng, còn tặng huân chương cao nữa (mà đ/c lại là Bí thư Đảng uỷ quân sự), để một số nơi cấp uỷ can thiệp sâu vào việc truy tố xét xử ” (9).


Những đàn em của Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh đã trực tiếp thực hiện hành loạt hành vi tàn độc gồm 3 anh em ruột là Mai Đức Thọ, Nguyễn Hữu Thọ, và Lê Chí Thọ. Thủ đoạn của Lê Đức Thọ đã được ghi trong những cuốn hồi ký như “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên, “Hoa xuyên tuyết” của Bùi Tín (10). Chính những người cộng sản đã đặt cho Lê Đức Thọ 3 biệt danh “Anh Sáu Búa”, “Anh Sáu Tú bà”, “Anh Sáu hèn”.


Một chứng nhân lịch sử rất quan trọng là thiếu tướng CSVN Hà Thanh Châu, Chính Ủy Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng (Chủ Nhiệm Tổng Cục là Trung Tướng Nguyễn Đức Lâm). Ông được Luật Sư William Lê hướng dẫn đến Sở Di Trú King County, Seattle, tiểu bang Washington State, nạp đơn “xin tỵ nạn chính trị” , sau 2 tuần lễ ông và vợ ông đi thăm 3 người con đang là “du học sinh” ở tiểu bang này. Bốn ngày sau, qua trung gian của 1 “viên chức” cao cấp Hoa Kỳ, ông trao cho chủ bút Tạp Chí Foreign Policy Magazine một tập tài liệu “tối mật”, có liên quan đến sự sống còn của nước Việt Nam, dự trù sẽ đăng tải cuối năm 2013. Tập tài liệu này, do người anh vợ của ông, Thiếu Tướng H.T.T. làm Chính Ủy Tổng Cục 2, dưới thời Tổng Cục Trưởng Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, chép lại nguyên văn từ cuốn băng nhựa AKAI mang bí số ML887, ghi âm những cuộc họp bí mật của các nhà lãnh đạo Việt Nam trong đó có nội dung mật ước Thành Đô giữa đảng cộng sản Việt Nam và đảng cộng sản Trung Quốc mà nhân dân Việt Nam bị giấu không cho được biết (11).

Điều tối quan trong trong thời điểm hiện nay để cứu được dân tộc Việt trong giây phút nguy nan này là ta phải biết được AI ĐANG CẦM TRONG TAY COPY BẢN GỐC CỦA HIỆP ƯỚC THÀNH ĐÔ ? Hiện trạng chính trị Việt Nam giờ đã rõ là các vụ thanh trừng nhóm lợi ích của phe đối lập vẫn diễn ra liên tiếp. Chúng ta phải nhớ rằng chính ba anh em Mai Đức Thọ, Nguyễn Hữu Thọ, và Lê Chí Thọ đã chết một cách bất đắc kì tử, vì một lý do gì liên quan đến Nguyễn Chí Vinh, đến đây có lẽ ai cũng hiểu ! Có một ghi vấn rất lớn là văn bản này đã được truyền lại cho Nguyễn Tấn Dũng và Đinh La Thăng hay không ? Vì sự thật sờ sờ ra đó là hai người này đang phải trả giá bởi ngục tù hoặc thanh trừng vây cánh trong nội bộ đảng ! Sự đấu đá quyền lực với Nguyễn Tấn Dũng đã và đang công khai diễn ra từng ngày một, có nghĩa nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này không phải chuyện bình thường, mà là đại sự có liên quan tới vận mệnh dân tộc (12). Vậy nên, trong phiên tòa ngày 17.1.2018, ông Đinh La Thăng đã phải nghẹn ngào chia sẻ về những “món nợ” của ông với nhân dân, những món nợ này không chỉ dừng lại ở những lời đã được sẻ chia đâu ạ ! (13)


Ôi toàn những điều man trá và ghê rợn ! Ước chi những điều vừa nói trên chỉ là sự hoang tưởng trong lịch sử đất nước Việt Nam đau thương của chúng tôi !

Nguồn tư liệu:

  1. Asian Origins of Twentieth-Century Military Science in Vietnam (1905-54) Author(s): Christopher E. Goscha https://www.jstor.org/stable/pdf/20072537.pdf?refreqid=excelsior%3A392697a7a181f11482b0f5e2deb6c854

  2. Thỏa hiệp ngầm ngày 5.7.2020 là ngày thực hiện đợt 1 sáp nhập nước Việt Nam vao Trung Quốc.(TS Kerby Anderson Nguyễn  )https://haiz00.wordpress.com/2015/08/16/thoa-hiep-ngam-05-07-2020-la-ngay-thuc-hien-dot-i-sap-nhap-nuoc-viet-nam-vao-trung-cong/

  3. Tài liệu của Vo Nhan Tri; Vietnam in 1987: A wind of “Renovation” https://www.jstor.org/stable/27911962?seq=1#page_scan_tab_contents

  4. Sino-Vietnamese Relations in the early twenty-first century: Economics in Command ?  https://www.jstor.org/stable/10.1525/as.2011.51.2.379?seq=1#page_scan_tab_contents

  5.  Bài viết của RFA được đăng lại: https://hoangtran204.wordpress.com/2010/07/26/lt-va-dvh-21-7-2010/

  6. Đơn tố cáo Nguyễn Chí Vịnh của 38 tướng lĩnh: https://www.diendan.org/viet-nam/38-tuong-linh-va-lao-thanh-len-an-nguyen-chi-vinh

  7. Những sự thật cần phải biết (Phần 22) – Tội đồ Lê Đức Thọ:  http://danlambaovn.blogspot.com/2013/09/nhung-su-that-can-phai-biet-phan-22-toi.html

  8. Bí mật – Sát nhập Việt Nam vào Trung Quốc: https://haiz00.wordpress.com/2015/02/20/bi-mat-sap-nhap-viet-nam-vao-trung-quoc/

  9. VOA ‘Đồng chí X’ có sẽ bị tống vào ‘lò’ ? : https://www.voatiengviet.com/a/dong-chi-x-nguyen-tan-dung/4044843.html


bottom of page